Di tích Ao Bà Om và những truyền thuyết
Ao Bà Om nằm cách trung tâm thành phố Trà Vinh chừng 6 km về phía Tây Nam thuộc địa bàn khóm 4, phường 8, Tp. Trà Vinh, tỉnh Trà Vinh (trước đây là ấp Tà Cụ, xã Nguyệt Hóa, huyện Châu Thành). Ao Bà Om còn được gọi là Ao Vuông vì ao có hình vuông, khuôn viên quanh ao có diện tích rộng 10 hecta, trong đó mặt ao hơn 4 hecta. Tùy theo mùa mà các loài hoa nước như bông súng, bông sen đua nhau bung nở khắp mặt ao, còn có hàng đàn vịt trời (le le) về đây tung tăng bơi lặn, tạo nên phong cảnh rất yên bình và thơ mộng. Bao bọc xung quanh ao là những gò cát chông chênh với gần 500 cây sao, cây dầu hàng trăm năm tuổi, theo thời gian, cát giồng bị bào mòn, rễ cây trồi lên mặt đất thành những hình thù kỳ vĩ trông thật lạ mắt. Cạnh bờ ao là chùa Âng- ngôi chùa Khmer cổ kính thuộc loại bậc nhất vùng Đồng bằng sông Cửu Long mà đến nay chưa có sử liệu nào ghi chép để biết được ao Bà Om có trước hay ngôi chùa Âng. Nhưng đó là những dấu tích xa xưa còn ẩn mình qua lớp bụi thời gian mà người đời sau đã đưa ra nhiều giả thuyết để giải thích về tên gọi của địa danh này.
một góc ao Bà Om
Câu chuyện sau đây được nhiều người biết đến và được kể lại nhiều nhất vì rất gần gũi với người dân đồng bằng sông Cửu Long, đặc biệt là với người Khmer ở vùng đất này. Chuyện kể rằng, ngày xưa ruộng rẫy nơi đây khô cằn, cây cỏ vàng úa, đời sống của người dân vùng đất này rất vất vả. Một vị hoàng tử trấn nhậm trong vùng bèn qui tụ dân chúng lại để đào ao trữ nước ngọt. Ngày xưa, nam nữ muốn lấy nhau nhưng không bên nào chịu ngỏ lời trước vì phải chịu một khoản chi phí rất lớn cho việc mua sắm lễ vật và tổ chức đám cưới cho cả hai họ. Vị hoàng tử đó nhân dịp này phân xử việc này bằng cách chia ra 2 bên nam, nữ tổ chức một cuộc thi đào ao. Qui ước rằng, trong vòng 1 đêm, công việc đào bắt đầu từ lúc trời tối và khi nào sao Mai mọc ở hướng Đông thì kết thúc, nếu bên nào đào xong với diện tích lớn hơn và sâu hơn thì bên đó thắng cuộc, bên thua cuộc phải đi hỏi cưới bên thắng cuộc. Trời vừa tắt nắng hai bắt đầu cuộc thi. Bên nam thì đào ao tròn ở phía Tây gần đó còn bên nữ đào ao vuông ở phía Đông. Bên nữ do bà Om chỉ huy. Biết sức phụ nữ không thể kình lại với sức đàn ông nên bà đã dùng kế. Họ vừa đào vừa ca múa, lại bày tiệc thết đãi, phục vụ rượu cho quý ông để họ lơ là công việc. Riêng ở bên nam ỷ lại vào sức mạnh của mình, xem thường sự yếu đuối của phái nữ nên không chú tâm đến việc đào ao mà chỉ mải mê xem ca hát và uống rượu, đến nửa đêm khi phái nam đã ngà say, bà Om cho treo ngọn đèn trên cây thật cao ở hướng Đông. Theo giao hẹn khi sao Mai mọc là phải ngừng công việc. Khi bên các ông thấy ngọn đèn cứ ngỡ là sao Mai đã mọc lên, nên đi về nghỉ. Trong khi đó bà Om vẫn chỉ huy phái nữ tiếp tục đào ao và hoàn thành tốt công việc của mình cho đến khi sao Mai mọc thật sự mới về. Bên nam thua cuộc trong sự “Tâm phục, khẩu phục”. Kết quả là phái nữ đã thắng cuộc. Kể từ đó, để nhớ ơn người phụ nữ thông minh người ta lấy tên của bà đặt tên ao. Ao phụ nữ đào được gọi là ao Bà Om. Còn cái ao tròn mà phái nam đào hiện nay không còn dấu tích. Và truyền thống nam đi cưới nữ , con phải lấy họ mẹ trong dân tộc Khmer cũng bắt đầu từ đây. Mãi đến sau này khi người Pháp cai trị nước ta thì con mới lấy theo họ cha.
Là nơi lý tưởng cho những cặp uyên ương chụp ảnh cưới
Cũng giải thích cho tên gọi ao Bà Om còn có một câu chuyện khác: Xưa kia có một vị Hoàng tử rất độc ác trấn nhậm vùng đất Trà Vinh, ông bắt dân chúng phải dâng gái đẹp cho ông ta, ai bất tuân sẽ bị trừng trị nặng. Vị hoàng tử này buộc phụ nữ phải đem lễ vật đi cưới đàn ông. Một hôm, có một cô gái xinh đẹp đến gặp hoàng tử để bày tỏ sự phản đối về tập tục bất hợp lý này. Vì bị lôi cuốn bởi vẻ đẹp của cô gái nên hoàng tử muốn làm vừa lòng người đẹp, vừa muốn xóa bỏ tập tục mình đặt ra bằng cách cho mở một cuộc thi đào ao. Sau đó mọi chuyện diễn ra như chuyện kể trên.
Còn có một truyền thuyết khác, ngày xưa có một hoàng tử trấn nhậm vùng đất này. Hoàng tử đóng quân ở Sóc Thác cách Ao Bà Om ngày nay chừng 2 Km, còn công chúa thì chọn khoảng đất gần chùa Âng ngày nay để dừng chân. Do không tìm được người con gái nào vừa ý để cưới, hoàng tử đã sang hỏi cưới em gái mình nên bị công chúa cự tuyệt vì trái với luân thường đạo lý. Để đối phó, công chúa sai lính đào hào, đắp lũy để ngăn cản hoàng tử. Nàng cũng cho đào ao lấy nước ngọt dùng trong dinh và giao cho tứ nữ cận thần là bà Inh, bà Sung, bà Son và do bà Om chỉ huy công việc đào ao và canh gác khi ao hoàn thành. Sau đó dân chúng trong vùng lui tới lấy nước dùng và gọi ao ấy là ao Bà Om.
Về cách gọi tên ao mang yếu tố ngữ âm có giai thoại cho rằng, trước đây khu vực ao này mọc rất nhiều rau ngò om- một thứ rau gia vị dùng để nấu canh chua. Người dân địa phương thường gọi là rau Mà Om nên đặt tên cho ao là ao Mà Om, sau này gọi ra thành ao Bà Om. Có người còn cho rằng chữ Bà Om do từ Angkorajaborey (chùa Âng) đọc chệch thành Bà-om do ao Bà Om nằm rất gần với chùa Âng.
Theo các nhà Sử học và nghiên cứu Văn hóa dân gian thì có khoảng 10 dị bản để giải thích địa danh Ao Bà Om gồm đủ các thể loại của chuyện kể dân gian như: chuyện cổ tích, chuyện dã sử, truyền thuyết, giai thoại… Có thể nói đây là một trường hợp có nhiều giả thuyết nhất về tên gọi địa danh ở Đồng bằng sông Cửu Long. Xét về mặt nội dung hầu hết các chuyện xung quanh 3 chủ đề chính: Giải thích tên gọi Ao Bà Om, lý giải người nam đi cưới người nữ và tại sao người Khmer có tục lệ theo họ mẹ? Các chuyện kể đều là sản phẩm của trí tưởng tượng mang đậm dấu ấn văn hóa của người Khmer ở Nam bộ.Ao Bà Om và chùa Âng được Bộ Văn hóa-Thông tin công nhận là di tích Lịch sử Văn hóa cấp quốc gia thuộc loại hình danh lam thắng cảnh vào ngày 10-7-1994. Nằm trong quần thể chùa Âng, Nhà bảo tàng văn hoá dân tộc Khmer, Ao Bà Om là nơi thu hút hàng trăm ngàn du khách đến tham quan, cắm trại, vui xuân, nhất là vào các dịp lễ, tết hàng năm của người Khơmer: Tết Chol chnam thmây (năm mới), Lễ hội Sen Đôn ta mà đặc biệt là lễ hội Ook Om Bok (cúng trăng), Ao Bà Om trở thành nơi sinh hoạt cộng đồng náo nhiệt của cả vùng, không chỉ người Khơmer ở Trà Vinh mà cả người Kinh, người Hoa ở các tỉnh lân cận cũng về đây chung vui. Họ cùng nhau nhảy múa, xem hát dù kê, thả đèn gió…thắt chặt thêm tình đoàn kết, hòa hợp các dân tộc anh em ở vùng sông nước Cửu Long.Hàng đàn vịt trời về đây trú ngụ
0 nhận xét:
Đăng nhận xét